Bạn muốn tìm hiểu khái niệm ICD là gì, cảng cạn là gì, vai trò của các khu vực này như thế nào trong vận chuyển quốc tế hàng xuất nhập khẩu? Bài viết này sẽ giúp bạn.
Hiện nay, nhiều hệ thống cảng cạn được phát triển nhằm tổ chức vận chuyển container một cách hợp lý, tăng hiệu quả hoạt động dịch vụ logistics trên các hành lang vận tải, góp phần giảm ùn tắc giao thông tại cảng biển, cửa khẩu quốc tế và các đô thị lớn.
Vậy…
ICD là viết tắt của cụm từ Inland Clearance Depot, dịch ra là “Điểm thông quan trong nội địa”, thường được gọi ngắn gọn (nhưng chưa chính xác) là Cảng cạn.
ICD được hải quan và cảng vụ công nhận là phần mở rộng, là “cánh tay nối dài” của cảng biển. Đây là địa điểm nằm trong nội địa chứ không ở gần cửa khẩu, được lập ra để thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu. Nhờ đó, giúp cho cảng biển giải phóng hàng nhanh, tăng khả năng thông qua nhờ các dịch vụ đóng gói, lưu kho bãi, thủ tục hải quan…
Hiện nay một cách diễn giải khác được sử dụng ngày càng nhiều của từ ICD là Inland Container Depot. Nếu dịch theo tiếng Anh, thì từ này chỉ có nghĩa là Bãi Container nội địa, chứ không nói đến chức năng thông quan hàng hóa. Như vậy thì không đúng với “địa điểm thông quan” như bản chất của ICD mà chúng ta vẫn hiểu.
Ví dụ tiêu biểu: ICD Mỹ Đình (Hà Nội), ICD Phước Long (Tp. HCM).
Theo sơ đồ trên, các container hàng nhập khẩu được dỡ từ tàu lên cảng biển, sau đó chuyển đến ICD bằng đường bộ hoặc đường sắt. Tại đây, hàng hóa được làm thủ tục thông quan, sau đó kéo về kho của chủ hàng. Với hàng xuất khẩu, quá trình diễn ra tương tự nhưng theo chiều ngược lại.
Mặc dù có thể hiểu khái niệm ICD là gì, nhiều người vẫn cho rằng ICD là Cảng cạn (Dry Port), và dùng 2 thuật ngữ này thay thế cho nhau.
Cách sử dụng như vậy liệu có đúng không, có phù hợp với nội dung quy định trong văn bản của Nhà nước hay không? Tôi sẽ thảo luận cụ thể trong phần dưới đây.
Như trên tôi đã nêu, ICD mang ý nghĩa là địa điểm thông quan nằm trong nội địa, cách xa cảng biển, và hoạt động như phần nối dài của cảng biển.
Nôm na, Cảng cạn là cảng nằm trên cạn (xa bờ), chứ không nằm cạnh biển, hay sông (để phân biệt với cảng biển, cảng sông), và vì là “cảng” nên nó là khu vực để tập kết các phương thức vận tải phục vụ vận chuyển hàng hóa. Đó là theo nghĩa thông thường.
Còn về quy định pháp luật thì sao? Cảng cạn là gì, có phải là ICD không?
Điều 4 - Bộ luật Hàng hải Việt Nam định nghĩa cụ thể như sau:
“Cảng cạn là một bộ phận thuộc kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, là đầu mối tổ chức vận tải gắn liền với hoạt động của cảng biển, cảng hàng không, cảng đường thủy nội địa, ga đường sắt, cửa khẩu đường bộ, đồng thời có chức năng là cửa khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bằng đường biển.”
Trong khi đó, tôi tra cứu khá nhiều nhưng chưa thấy điều luật nào định nghĩa cụ thể ICD là gì. Tuy vậy, trong Điều 18, Nghị định 38/2017/NĐ-CP, có đề cập gián tiếp: ICD là “...điểm thông quan hàng hóa xuất, nhập khẩu”.
Như trên, Cảng cạn có chức năng là cửa khẩu đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, nghĩa là có chức năng của địa điểm thông quan trong nội địa (ICD). Nói cách khác, Cảng cạn bao hàm và rộng hơn khái niệm ICD.
Và cũng theo Nghị định 38 nói trên, thì muốn chuyển từ ICD lên cảng cạn, cần phải làm thủ tục xin phép chuyển đổi. Nếu 2 loại này là 1 thì cần gì phải chuyển đổi?! Như vậy, rõ ràng là về quy định, mặc dù có một số chức năng tương đồng, nhưng ICD chưa phải là Cảng cạn. Nhưng trên thực tế, do sự phức tạp về ngôn ngữ và tập quán, trên thực tế 2 khái niệm này vẫn được dùng thay thế cho nhau.
Việc nhiều tên gọi và khái niệm khác nhau cùng được sử dụng như vậy sẽ gây nhiều khó khăn cho việc quản lý phát triển của cơ quan nhà nước cũng như của doanh nghiệp.
>> Tham khảo thêm trong bài viết “Cảng cạn (Dry port) là gì? Vai trò, chức năng của cảng cạn”
Khi hiểu ICD là gì, bạn sẽ muốn tìm hiểu thêm những địa điểm thông quan này có vai trò cụ thể như thế nào trong vận tải đa phương thức.
ICD là nơi thông quan trong nội địa
Thông thường, hàng hóa xuất nhập khẩu được hoàn thành các thủ tục tại cảng biển, bao gồm nhiều công việc như: giám định, kiểm đếm, bốc xếp… Sau khi thông quan, hàng mới được xếp lên tàu (on board - với hàng xuất khẩu), hoặc kéo về kho chủ hàng (với hàng nhập khẩu). Trong khi đó, các bước công việc thông quan hàng hóa được thực hiện tại ICD, sẽ giảm tải và nâng cao năng lực và khả năng thông qua cho hệ thống cảng biển.
>> Tìm hiểu về dịch vụ hải quan thuê ngoài
ICD là nơi tập kết container, hàng hóa
Do các ICD nằm trong nội địa, nên hàng hóa và các container có thể tập kết tại đó rất thuận tiện, để chuẩn bị các bước công việc liên quan đến việc thông quan như tôi đã đề cập ở trên. Điều này giúp cho các chủ hàng gần ICD có thêm lựa chọn linh hoạt trong việc vận chuyển và lưu giữ hàng xuất nhập khẩu tại địa điểm gần với kho của mình.
ICD là cánh tay nối dài của cảng biển
Do hạn chế về diện tích của các cảng biển, việc mở rộng phạm vi phục vụ và nâng cao năng lực thông qua có thể được thực hiện thông qua các ICD. Hàng hóa được làm toàn bộ các công việc kiểm đếm, thông quan… tại ICD như tại cảng biển, vì thế các Depot trong nội địa này được xem là phần nối dài của các cảng biển sâu vào trong đất liền.
Nghị định 38/2017/NĐ-CP về đầu tư xây dựng, quản lý, khai thác cảng cạn quy định thủ tục chuyển đổi ICD thành cảng cạn (Điều 18).
Thông tư 09/2021/TT-BGTVT của Bộ Giao thông Vận tải về việc ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cảng cạn quy định chi tiết quy mô, cấu trúc đảm bảo cho một cảng cạn hoạt động hiệu quả, đáp ứng được vai trò là "cánh tay nối dài" của cảng biển.
Các hạng mục chính:
Quy mô cảng cạn xây dựng tại Việt Nam phải phù hợp với quy hoạch được phê duyệt, gắn với các hành lang vận tải chính, kết nối trực tiếp với cảng biển.
Cảng cạn phải có ít nhất 2 phương thức vận tải tạo điều kiện cho vận tải đa phương thức hoặc kết nối trực tiếp với một phương thức vận tải có năng lực cao.
Diện tích của cảng cạn không được nhỏ hơn 5ha để đảm bảo công suất khai thác thiết kế, diện tích bố trí nơi làm việc cho các cơ quan, tổ chức tại cảng.
Cảng cạn phải được thiết kế, quy hoạch tổng mặt bằng các phân khu đảm bảo các chức năng: nhận/gửi, đóng/dỡ hàng hóa; Gom và chia hàng hóa lẻ đối với hàng có nhiều chủ trong cùng một container; tập kết hàng hóa container và hàng hóa khác để vận chuyển đến cảng biển hoặc một nơi khác theo quy định; Tạm chứa hàng hóa xuất nhập khẩu (XNK) và container; Kiểm tra và thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK…
Ngoài ra, quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về cảng cạn cũng quy định chi tiết các yêu cầu về hạng mục công trình, bảo trì và phòng, chống cháy nổ.
Theo quy định, cảng cạn phải đảm nhận các chức năng như: nhận/gửi, đóng/dỡ hàng hóa; Gom và chia hàng lẻ thuộc nhiều chủ trong cùng container; tập kết hàng hóa container và hàng hóa khác để vận chuyển đến cảng biển hoặc một nơi khác theo quy định; Tạm chứa hàng hóa xuất nhập khẩu (XNK) và container; Kiểm tra và thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK…
Do đó, các dịch vụ cũng cần được triển khai tương ứng.
Các dịch vụ chính của cảng cạn bao gồm điểm thông quan hàng hóa nội địa, bãi chứa container có hàng, container rỗng và container hàng lạnh, dịch vụ bốc dỡ container, vận chuyển hàng dự án, hàng siêu trường, siêu trọng, làm thủ tục hải quan, làm kho ngoại quan…
Ngoài ra, cảng cạn còn có thể có những chức năng phụ như đóng rút hàng tại bãi, lắp đặt trang thiết bị, kho đóng hàng lẻ (CFS), làm bao bì, đóng gói chân không và vẽ mã hiệu hàng hóa, sửa chữa và vệ sinh container, vận chuyển đường bộ…
Xét về hiệu quả kinh tế, cảng cạn là xu thế phát triển tất yếu. Nó có thể góp phần làm giảm ách tắc cảng biển, tăng khả năng thông quan nhờ các dịch vụ đóng gói, lưu kho bãi, làm thủ tục hải quan… Đối với những khu vực xa cảng biển, chi phí vận chuyển thẳng ra cảng tốn kém hơn chi phí trung chuyển tại cảng cạn. Còn về khía cạnh vận tải, cảng cạn là thành phần không thể thiếu trong chuỗi vận tải đa phương thức.
Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn Việt Nam đến năm 2022, định hướng đến năm 2030 đã được phê duyệt trong Quyết định số 2223/QĐ-TTg vào tháng 12-2011 (Quy hoạch 2223). Đây là quy hoạch chính thức đầu tiên liên quan đến hoạt động của loại hình này nhưng do nhiều nguyên nhân, nó chưa phát huy được vai trò của mình và có thể đánh giá là thất bại.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đầu tư nhiều để phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật hệ thống cảng biển. Song hiệu quả lại chưa cao khiến sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, một phần do ngành logistics chưa có chiến lược phát triển hợp lý.
Tiềm năng phát triển hệ thống cảng cạn tại Việt Nam là khả quan, nhất là tại 8 tỉnh thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi có khối lượng hàng container thông quan chiếm gần 80% tổng lượng hàng hóa cả nước. Hiện khu vực này có các cảng cạn đang hoạt động là Sotrans, Tanamexco, Phước Long, Transimex, Long Bình, Tân Tạo, Phúc Long, Sóng Thần, Trường Thọ và Biên Hòa. Chức năng chủ yếu là tập kết và chuyển tiếp hàng hóa xuất nhập khẩu cho cảng biển, đồng thời là điểm thông quan nội địa.
Tính đến tháng 4/2021 theo trang logistics.gov.vn, Việt Nam có 9 cảng cạn và 16 cảng thông quan hàng hóa (có chức năng như cảng cạn).
Trong đó, khu vực phía Bắc có 8 cảng cạn, gồm:
và 7 cảng thông quan nội địa.
Khu vực phía Nam có ICD Tân Cảng Nhơn Trạch (Đồng Nai) và 9 điểm thông quan nội địa. Miền Trung chưa có ICD nào.
>> Xem danh sách Các ICD tại Tp. Hồ Chí Minh
Trong bài này tôi đã giải thích khá chi tiết các khái niệm ICD là gì, cảng cạn là gì, 2 thuật ngữ này có phải là 1 không, cùng với vai trò và những vấn đề liên quan đến quản lý cảng cạn. Hy vọng bài viết hữu ích cho bạn.
New! Comments
Have your say about what you just read! Leave me a comment in the box below.